Chuyến xe lửa tiếp tục đưa anh ta đi qua vùng phi
Quân sự mà trước đây chia đôi hai miền Nam Bắc, như hai Quốc gia thù
nghịch. Vào đến Huế, năm 1968, Tết Nguyên Đán năm Mậu Thân, VC đã biến
Thành phố cổ kính với những đền đài, lăng tẩm thành bãi chiến trường đẫm
máu. Những căn nhà cổ, cũ kỹ vẫn nằm dài trên con đường, và anh nhìn
thấy những đứa bé lai Mỹ đã trưởng thành, đang bán trái cây, bánh kẹo
trên đường phố. Anh tự hỏi, ai là người nuôi nấng, dạy dỗ những đứa trẻ
kém may mắn đó ! Những người cha, sinh thành ra chúng, những Quân nhân
Hoa Kỳ đã trở về quê hương của họ từ lâu. Hình ảnh những đứa bé này kéo
dài cho đến Thành phố HCM mà anh chỉ biết tên cũ là Saigon.
Đoạn cuối cuộc hành trình dài 700 dặm kết thúc khi anh đứng trước cửa
căn nhà thân yêu, năm xưa của mình. Anh cũng không ngờ, mình được trở
về nhà, như trong giấc mơ. Căn nhà nhỏ yên bình ở Vũng Tầu, một Thành
phố nghỉ mát, tắm biển. Lúc đó đã mười giờ đêm. Hơn hai mươi năm trước,
anh đã tự ý rời bỏ căn nhà này, vì tuổi trẻ, tính bồng bột, nghe theo
lời một cố vấn Hoa Kỳ nói rằng anh sẽ trở thành một người hùng. Bây giờ
anh đã trở về, tuổi thanh niên không còn nữa, sức khỏe đã suy yếu qua
những năm tháng tù đầy nơi miền Bắc. Không một ai chào đón như một người
anh hùng trở về… không một ai mong chờ anh.
Hai người công an “hộ tống” anh từ trại tù trở về đến nhà, đập cửa
rầm rầm, họ lớn tiếng nói cho người trong nhà nghe anh đã được tha về.
Anh nghe tiếng người trong nhà nói vọng ra, cằn nhằn. Người trong nhà từ
chối không chịu mở cửa, ông em rể (chồng cô em gái, khi anh vẫn còn bị
tù ngoài Bắc) không tin, cho rằng anh là người giả mạo. Bà Mẹ của anh
nay đã 75 tuổi, cũng không tin cho rằng anh là loài ma quỷ, yêu tinh
hiện hình “Con tôi chết đã lâu rồi, thôi ông đi đi, tôi sẽ đọc kinh, cầu
nguyện cho linh hồn ông”.
Bà Mẹ cũng có lý của bà ta, gần hai thập niên trôi qua, một Quân nhân
QL/VNCH đã đến thông báo cho bà ta rằng, con trai của bà đã từ trận
trong một nhiệm vụ đặc biệt. Chết ở đâu, họ không trả lời được vì bí mật
Quân sự. Và ít lâu sau, gia đình nhận được một số tiền “tử” của anh,
một nghiã cử của Chính quyền Hoa Kỳ. Đó là tiền trả lương cho anh trong
một năm phục vụ cho người Hoa Kỳ, khoảng 300 đô la.
Chẳng biết làm gì hơn, anh ta tiếp tục gõ cửa, cố gắng giải thích
“Anh ta là anh ta”. Một người Công an cũng nổi nóng la thật to “Ma quỷ
cái gì ! Anh ta trở về”. Cuối cùng anh nghe tiếng mở then cài, rồi hình
ảnh người Mẹ năm xưa hiện ra ngay trước mắt. Nhận ra đúng người con trai
của mình bằng xương bằng thịt, bà òa lên khóc rồi ngã xỉu trong đôi tay
của anh. Anh bước vào trong nhà, ngồi xuống ghế. Trong lòng anh tê tái,
không biết nói gì… chuyện xẩy ra, đã lâu lắm rồi.
Anh là một Quân nhân trong toán Biệt kích Romeo, gồm mười thanh niên
trẻ Việt Nam, được người Hoa Kỳ tuyển mộ, huấn luyện và trả lương. Trong
gần một thập niên, bắt đầu từ năm 1961, anh ta cùng với gần 700 thanh
niên khác đã được gửi ra, xâm nhập miền Bắc để phát động một cuộc chiến
tranh du kích nơi hậu phương miền Bắc Việt Nam. Mới đầu họ được cơ quan
Trung Ương Tình Báo (CIA) chỉ đạo, sau đó là Quân đội Hoa Kỳ. Những
người may mắn còn sống sót đều bị bắt và phải trải qua những năm tháng
trong các nhà tù ở ngoài Bắc. Đến bây giờ, những người còn sống dần dần
xuất hiện, mang trong lòng những câu hỏi về một cuộc chiến bí mật mà
những Sĩ quan cao cấp trong Quân đội Hoa Kỳ cho rằng đó là động lực thúc
đẩy Hoa Kỳ gia tăng cường độ chiến tranh tại Việt Nam.
Theo những Sĩ quan trong Quân đội, nhân viên tình báo, những nhà
nghiên cứu Quân sử, và những Biệt kích quân, những toán Biệt kích nằm
trong chương trình hoạt động bí mật, có tên Quân đội đặt cho là kế hoạch
34A, kéo dài từ năm 1961 đến năm 1970. Chương trình hoạt động bí mật
này là những thất bại liên tục, bị giới chức lãnh đạo Hoa Kỳ hoài nghi
về sự thành công.
Sedgwick Tourison, một người điều tra làm việc cho Ủy Ban Tìm Kiếm Tù
Binh, Quân Nhân Mất Tích trong Thượng Viện, nói rằng, kể từ năm 1979,
hàng trăm điệp viên, Biệt kích quân đã được trả tự do từ những nhà tù
nơi miền Bắc Việt Nam. Nhiều người đã trở về mái nhà xưa, làm sửng sốt
thân nhân của họ ở Việt Nam, những người thân đó đã được thông báo từ
bao nhiêu năm trước rằng người lính Biệt kích đã tử trận. Đã có khoảng
50, 60 cựu Biệt kích quân đã thoát khỏi Việt Nam và đến được Hoa Kỳ.
Những người khác vẫn còn sống trong các trại tỵ nạn trong vùng Đông Nam Á
hay ở Việt Nam, nơi mà họ được đối xử như “phó thường dân”.
Con số chính xác về số Biệt kích quân làm việc cho Hoa Kỳ thật khó
biết. tất cả hồ sơ về cuộc chiến bí mật vẫn còn được giấu kín trong
những trung tâm lưu trữ hồ sơ. Những tài liệu đã hết hạn bảo mật chỉ hé
mở phần nào về số phận của những Biệt kích quân này. Trong cố gắng tìm
kiếm các quân nhân bị mất tích tại Việt Nam, Tourison cho biết trong
thời gian khoảng giữa đến cuối thập niên 1980, ông ta đã phỏng vấn gần
hết các cựu Biệt kích quân đang sống tại Hoa Kỳ. Tin tức từ các Biệt
kích quân và những viên chức khác, Tourison ước lượng có khoảng 400, 500
trong tổng số 700 Biệt kích quân đã phục vụ cho cơ quan CIA và Quân đội
Hoa Kỳ vẫn còn sống. Dale Andrade, một sử gia làm việc trong Trung Tâm
Quân Sử Hoa Kỳ ở Washington ước tính có khoảng 200, 300 Biệt kích quân
nằm trong kế hoạch 34A (xâm nhập miền Bắc VN).
Nhưng nếu chỉ đưa những câu hỏi về con số Biệt kích quân, mà không
nhắc tới kết quả bi thảm cũng không được. “Không xứng đáng với những nỗ
lực của họ. Theo sự đánh giá của tôi”, đó là lời phát biểu của đại tướng
Westmoreland, cựu Tư lệnh Quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam từ năm 1964 đến
năm 1968. “Không có hiệu quả. Chúng tôi nghi ngờ về các toán Biệt kích,
về những tin tức họ đem về. Không đóng góp nhiều trong cuộc chiến”.
Cái giá của sự thất bại, các Biệt kích quân đã phải trả bằng nhiều
năm. Bị kết tội “tội phạm chiến tranh”, họ phải gánh chịu những cực hình
trong tâm thần, bỏ đói, ăn uống thiếu dinh dưỡng, cô lập, sống khổ sở.
Đó là những hình phạt nhằm mục đích hủy hoại tinh thần hoặc giết họ lần
mòn. Trong các trại tỵ nạn, các Biệt kích quân chứng kiến những cựu Quân
nhân QL/VNCH chỉ bị tù cải tạo vài năm, được ung dung đi định cư tại
Hoa Kỳ dễ dành, nhanh chóng hơn họ nhiều.
Nhiều biệt kích quân sau khi đã đến định cư tại Hoa Kỳ gặp khó khăn
hội nhập với xã hội. Vài người vẫn còn thói quen, ăn rất ít như những
bữa ăn trong tù, nhiều người vẫn chư khỏi bệnh tật. Ít người may mắn tìm
được công việc thích hợp, những người khác nhận sự trợ giúp của chính
phủ hoặc bạn bè, thân nhân hay đồng đội cũ. Tất cả đều đã hy sinh tuổi
thanh xuân, và bị phản bội.
Hoa Kỳ đã đòi hỏi rất ít trong vấn đề trả tự do cho các Biệt kích
quân trong cuộc hòa đàm Paris, ký kết vào đầu năm 1973. Chính phủ Hoa Kỳ
cũng từ chối, không cho họ được hưởng quyền lợi cựu Quân nhân, mặc dầu
họ đã làm việc cho người Hoa Kỳ. “Không có gì đáng nghi ngờ chúng tôi là
ai”, đó là lời phát biểu của Lê Văn Ngung, một Biệt kích quân bị tù 17
năm ngoài miền Bắc và đến định cư ở Thành phố Baltimore, tiểu bang
Maryland từ năm 1985. “Chúng tôi chiến đấu cho Quốc gia. Nhưng theo nhận
xét của tôi, Chính phủ Hoa Kỳ phải làm điều gì hơn nữa thay vì quay
lưng về phiá chúng tôi”.
Ngày 4 tháng Hai năm 1967 là ngày sinh nhật thứ 23 của Lê Văn Ngung.
Hôm đó, lính Bắc Việt vây quanh anh ta và nện anh ta bằng báng súng.
Những ngày trước đó, trời mưa tầm tã, cả toán Biệt kích bị đói, đã hết
lương thực đem theo, lại phải chiến đấu trong những cánh rừng rậm rạp,
chạy về hướng biên giới Lào tìm đường sống trong tuyệt vọng. Không còn
sức chống cự, cả toán Biệt kích Hadley bị bắt. Cũng như những toán Biệt
kích trong kế hoạch 34A trước đó, chuyến ra đi của toán Hadley đã gặp
nhiều điều rủi ro, xui xẻo. Đội quân Biên phòng Bắc Việt đã trông thấy
trực thăng chở toán Biệt kích xâm nhập băng qua biên giới Lào, vào miền
Bắc Việt Nam. Mười ngày sau, họ bắt sống được cả toán Biệt kích, từ
trong miền Nam ra.
Gia đình Lê Văn Ngung được đại diện chính quyền miền Nam thông báo
rằng anh ta đã tử trận. Gia đình anh Ngung làm tang lễ cho anh, đâu biết
rằng anh vẫn còn sống, bị giam cầm trong tù ngoài Bắc, ở một nơi cách
xa hàng trăm dặm. Biệt kích Lê Văn Ngung bị đưa ra tòa, kết án tù 16 năm
về tội Biệt kích gián điệp. Sau khi được tha về ít lâu, anh quay trở
vào tù thêm sáu tháng nữa vì tội vượt biên.
Trong thời gian bị cầm tù qua các trại tù Phố Lu, Thanh Trì, và Phong
Quang, anh Ngung phải làm việc lao động cực khổ cả ngày, chỉ được ăn bo
bo thay cho cơm. “Không có gì cho bữa ăn buổi sáng. Thỉnh thoảng mới
được một miếng sắn hay một cọng rau. Bo bo rất khó tiêu hóa, dễ bị bệnh
về đường ruột”.
Vấn đề vệ sinh trong tù rất thiếu thốn, hôi tanh mùi xú uế, nước tiểu
và không có nước máy. Mỗi lần Y tá vào quan sát đều phải mang khẩu
trang, che mũi, miệng vì chỗ nào cũng bị ô nhiễm, mùi hôi vương vãi khắp
nơi. Điều kiện sống trong tù khó khăn, người tù Biệt kích Lê Văn Ngung
vẫn chống đối việc cải tạo, không chịu học tập, mặc dầu đã bị cùm chân,
nhốt riêng nhiều lần. Trong năm 1973, sau hiệp định Paris, miền Bắc vẫn
không chịu trả tự do cho anh và những người bạn tù, đồng đội khác. Lê
Văn Ngung xách động, tổ chức tuyệt thực để phản đối chính quyền miền
Bắc. Và kết quả, anh bị cùm biệt giam sáu tháng. Khi được thả ra, anh đã
mất đi một nửa trọng lượng 135 cân Anh, chỉ còn da bọc xương và một
đồng đội, bạn tù đã phải cõng anh ra khỏi khu biệt giam. Nhưng người tù
Biệt kích Lê Văn Ngung vẫn sống sót : “Một điều tôi không thể làm được
là quỳ gối, van xin kẻ thù”. Anh nói tiếp : “Tôi vẫn phải giữ danh dự.
Nếu không tôi cũng chẳng khác gì chúng”.
Đến năm 1976, sau gần mười năm bị đầy đọa, các tù Biệt kích được cho
phép viết thư về báo tin cho gia đình, lúc đó gia đình anh mới biết anh
vẫn còn sống. Chuyện xảy ra như trong giấc mơ. Những bức thư đầu nhận
được từ gia đình, cha mẹ anh rất… ngần ngại. “Không biết có đúng không…
Con sẽ không thể nào biết rằng Bố Mẹ đã vui sướng như thế nào, khi được
tin con vẫn còn sống”. Cha mẹ anh vẫn chưa tin và trong những lá thư kế
tiếp, anh đã kể lại những kỷ niệm lúc còn nhỏ, khi còn sống sung sướng
dưới mái ấm gia đình, để cha mẹ anh tin là anh vẫn còn sống, không như
chính quyền miền Nam đã thông báo trước đây. Lúc đó cha mẹ Lê Văn Ngung
mới đem tấm ảnh của anh trên bàn thờ xuống.
Anh Ngung thọ án tù xong, được trả tự do vào năm 1982, tuy nhiên vẫn
bị quản thúc, theo dõi tại địa phương, nơi anh cư trú. Sau nhiều lần
vượt biên, anh đã thành công, đến Mã Lai năm 1984, sống trong trại tỵ
nạn Mã Lai một năm trước khi được đến Hoa Kỳ định cư. Anh cho biết “Tôi
biết còn bốn cựu biệt kích quân nữa, đang ở trong các trại tỵ nạn trong
vùng Đông Nam Á. Họ không bị mất tích (MIA). Điều đáng buồn khi biết
rằng chẳng ai lưu tâm đến họ”.
Kế hoạch hành quân được Quân đội đặt tên cho là “34 Alpha”, bắt đầu
từ năm 1961 là một kế hoạch bí mật của cơ quan Trung Ương Tình Báo CIA,
tổ chức và võ trang quân kháng chiến nơi miền Bắc Việt Nam. Những hoạt
động bí mật của Hoa Kỳ, thực sự bắt đầu từ năm 1954, sau khi hiệp định
Genève chia đôi đất nước Việt Nam. Cơ quan CIA lập ra những nhóm chống
Cộng sản Việt Nam để tổ chức những đội quân du kích, bắt cóc, ám sát
viên chức chính quyền miền Bắc. Thiết lập những đường dây tình báo (điệp
viên) và tuyên truyền chống chế độ. Nhưng những điệp viên gặp khó khăn
tránh né hệ thống kiểm soát chặt chẽ của cộng sản. Rất ít điệp viên
thoát được, và những cố gắng này kết thúc vào cuối thập niên 1950 với sự
thất bại.
Theo tài liệu, phần nói về các hoạt động bí mật trong hồ sơ Ngũ Giác
Đài (Pentagon papers, bộ TTM/QL Hoa Kỳ), bộ Quốc Phòng bàn cãi về chiến
tranh Việt Nam. Vài năm sau, cơ quan CIA mở lại các hoạt động bí mật,
sau khi Tổng Thống John F. Kennedy chấp thuận cho các hoạt động bí mật
nơi miền bắc Việt Nam và ở bên Lào. Cựu giám đốc cơ quan CIA, William E.
Colby lúc đó đang làm trưởng phòng đặc trách trông nom khu vực Đông Nam
Á, bắt đầu xúc tiến một kế hoạch mới trong năm 1961.
Trần Quốc Hùng là một trong những người đầu tiên được tuyển mộ. Vào
cuối thập niên 1950, ông ta bỏ công việc quản lý, trông coi cửa tiệm kim
hoàn của gia đình ở Saigon. Qua hệ thống quân đội VNCH, ông Hùng trở
thành người hướng dẫn cho ba nhân viên tình báo CIA Hoa Kỳ. Trong năm
1961, ông ta được người Hoa Kỳ đặt cho mật danh “Columbus” và được lệnh
tuyển mộ những người miền bắc, có cảm tình với chế độ trong miền Nam làm
gián điệp, để trao một số tài liệu mật cho những người chống Cộng ở Hà
Nội.
Một chiếc tầu nhỏ của CIA đưa Hùng vào bờ biển miền bắc trong tháng
Năm 1961, và người điệp viên với đầy đủ giấy tờ là một học sinh, tìm
đường ra đến Hà Nội. Anh ta trao được một tài liệu mất, nhưng ngay tối
hôm đó đã bị nhân viên an ninh miền bắc theo dõi. Trần Quốc Hùng cũng
không ngờ làm sao “an ninh” miền bắc nhanh như thế. Và trong tháng Sáu,
người điệp viên bị bắt và đưa vào nhà tù Hỏa Lò, sau này các phi công
Hoa Kỳ bị giam đặt tên là Hà Nôi Hilton (một chuỗi khách sạn cỡ lớn,
sang trọng ở Hoa Kỳ).
Theo lời cựu Giám đốc cơ quan CIA, những điệp viên khác gửi ra ngoài
Bắc cũng không hiệu quả. Cơ quan an ninh, phản tình báo miền Bắc bắt giữ
gần hết những điệp viên, cơ quan CIA đưa từ trong miền nam ra. Theo hồ
sơ lưu trữ của Bắc Việt, 34 điệp viên trong số 17 đường giây tình báo
của cơ quan CIA đã bị giết, 140 người khác bị bắt giữ, và con số này chỉ
tổng kết riêng cho năm 1963 mà thôi. Nhiều người trong số bị bắt này bị
ép buộc làm việc cho tình báo miền Bắc nên không thấy họ xuất hiện
trước các phiên tòa ở Hà Nội.
Mặc dầu gặp phải khó khăn, cấp lãnh đạo Hoa Kỳ tái tổ chức các hoạt
động bí mật lần thứ ba, trao trách nhiệm cho Quân đội. Trong tháng Giêng
1964, bộ Tổng Tham Mưu quân lực Hoa Kỳ chấp thuận kế hoạch 34A, những
hoạt động bí mật nơi miền Bắc Việt Nam. Những hoạt động trong kế hoạch
này được Ủy Ban 303 dưới quyền Cố Vấn An Ninh Quốc Gia Mc George Bundy
thông qua. Ủy ban này bao gồm viên chức cao cấp thuộc cơ quan CIA, bộ
Quốc Phòng và bộ Ngoại Giao. Tất cả những hoạt động hàng ngày được CIA
trao cho Bộ tư lệnh Quân Lực Hoa Kỳ tại Việt Nam thi hành. Và đơn vị
được trao cho nhiệm vụ này là Đoàn Nghiên Cứu Quan Sát (Study and
Observation Group – đơn vị VNCH tương đương là Nha Kỹ Thuật).
Theo tài liệu trong Quân sử Hải Quân Hoa Kỳ, những hoạt động bí mật
được trao trách nhiệm cho Quân đội từ ngày 20 tháng Mười Một năm 1963,
khi Bộ trưởng Quốc Phòng Robert S. McNamara ra lệnh tổ chức một chương
trình quy mô, rộng lớn cho những hoạt động bí mật chống lại miền bắc
Việt Nam. Lúc đó, ông Colby đang giữ chức vụ trưởng phòng CIA trong khu
vực Viễn Đông đã lên tiếng cảnh cáo rằng kế hoạch đó sẽ không thành
công. Ông ta giải thích thêm, những thất bại của cơ quan CIA tại Việt
Nam cũng tương tự như những thất bại trong các hoạt động bí mật của cơ
quan này tại Trung Hoa và Hàn Quốc vào cuối thập niên 1940, đầu thập
niên 1950. “ý tôi muốn nói làm giảm bớt đi, nhưng các Sĩ quan cao cấp
trong Quân đội thích làm to ra. Họ có tinh thần trách nhiệm, phải làm
cho bằng được”.
Ăn mặc quần áo Pyjama đen như nông dân, võ trang tiểu liên Thụy Sĩ
K-9, súng lục, lựu đạn, các Biệt kích quân được trực thăng hoặc tầu nhỏ
đưa vào miền Bắc Việt Nam. Cũng như cơ quan CIA đã làm trước đây, thường
tuyển mộ người gốc miền Bắc, còn trẻ, hăng say. Trong hồ sơ Quân đội,
sau khi đã huấn luyện xong, các Biệt kích quân được đưa đi xâm nhập vào
miền Bắc để tổ chức kháng chiến, phá hoại các trại binh, căn cứ Hải
Quân, theo dõi các cuộc chuyển quân, phá cầu, nhà máy điện, nước, v.v…
Các toán Biệt kích thường được trao cho nhiệm vụ hoạt động có thể kéo
dài nhiều ngày cho đến vài năm. Theo hồ sơ bộ Quốc Phòng, trong tháng
Mười Hai năm 1963, bộ trưởng Quốc Phòng McNamara gửi văn thư cho Tổng
Thống Lyndon B. Johnson nói về kế hoạch 34A “Xuất sắc… phá hoại miền Bắc
Việt Nam… bằng nhiều cách…”. Đại tướng Hoa Kỳ Earn Wheeler và tướng
Maxwell Taylor, Tổng Tham Mưu Trưởng quân lực đồng ý với kế hoạch.
Đến tháng Sáu năm 1964, những thất bại trong kế hoạch 34A từ từ hiện
ra. Theo tài liệu trong Quân sử Hải Quân, nhiều trận đột kích của Người
Nhái, Biệt Hải vào các mục tiêu dọc theo bờ biển miền Bắc, không đem lại
kết qủa. Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam lên tiếng “Có lẽ, được huấn luyện
rất tốt, nhưng không gây được ảnh hưởng”. Đại tướng Westmoreland, sau
này lên chức Tham Mưu Trưởng Lục Quân, đã bắt đầu nghi ngờ về thành quả
của kế hoạch 34A trong tháng Bẩy. Cuối cùng, bộ trưởng Quốc Phòng
McNamara bắt đầu lo ngại từ tháng Tám.
Mặc dầu đã có dấu hiệu thất bại trong kế hoạch 34A, nhưng cuộc chiến
lan rộng và Quân đội Hoa Kỳ được đưa sang Việt Nam ồ ạt với những đơn vị
lớn. Tướng Westmoreland cho biết, ông được nghe thuyết trình về các
hoạt động biệt kích ngoài Bắc nhiều lần, nhưng lúc đó quá bận trong việc
đưa các đơn vị lớn qua Việt Nam. Vài Sĩ quan cao cấp khác, chỉ huy Đoàn
Nghiên Cứu Quan Sát (SOG) như đại tá Donald Blackburn, sau này lên
Tướng và về hưu sống ở tiểu bang Florida, nói rằng có sự nghi ngờ, nhưng
vẫn cứ gửi thêm biệt kích ra ngoài Bắc. Ông ta nói thêm. Sau này chính
ông ta ra lệnh rút ngắn hành quân Biệt kích lại chỉ còn một tuần. (Biệt
kích STRATA, đoàn 11 Nha Kỹ Thuật).
Đến năm 1968, toán Biệt kích cuối cùng trong kế hoạch 34A được gửi ra
miền Bắc. Theo Tourison, toán Biệt kích này bị thả lầm xuống một vị trí
phòng không. Hai năm sau, tất cả Biệt kích trong các toán xâm nhập miền
Bắc Việt Nam đều đã bị giết, cầm tù, hay bị ép buộc làm việc với địch
quân. “Các biệt kích quân Việt Nam rất can đảm, nhưng kế hoạch không thể
nào thành công được”. Cựu trùm cơ quan CIA Colby nói thêm “Tôi đã cố
gắng dẹp bỏ kế hoạch này sau một, hai năm thực hiện, nhưng Quân đội muốn
làm lại từ đầu. Theo tôi, họ cũng thất bại. Nhưng trong một cuộc chiến,
bạn phải tìm… đủ mọi cách”.
Ngay từ lúc còn bé, sống ở miền Bắc Việt Nam, Đinh Hùng Nhi đã muốn
làm người anh hùng. Ngồi trong căn phòng nhỏ, anh ta kể lại… Trong thời
gian huấn luyện, cố vấn Hoa Kỳ nói với bọn tôi rằng “Bất cứ chỗ nào anh
đến, đều có… (quân bạn)”. Nhưng khi đặt chân xuống miền Bắc Việt Nam,
Biệt kích Đinh Hùng Nhi chẳng thấy ai…
Là một Biệt kích trong kế hoạch 34A, chuyến công tác đầu tiên dành
cho Đinh Hùng Nhi cũng là nhiệm vụ cuối. Ngày 19 tháng Mười Một năm
1965, toán Biệt kích Romeo được trực thăng đưa đi xâm nhập miền Bắc Việt
Nam. Nhiệm vụ của toán Biệt kích, nằm vùng hai năm, dò thám và phá
hoại. Nhưng khi xuống, toán Biệt kích bị thất lạc trong rừng sáu tuần lễ
vì bị đưa vào không đúng địa điểm xâm nhập. Đến tuần lễ đầu tiên trong
tháng Giêng năm 1966, toán Biệt kích Romeo rơi vào ổ phục kích của đơn
vị Biên phòng Bắc Việt.
Cả toán Biệt kích bị đưa đến một trại tù trong tỉnh Quảng Bình. Nơi
đó, mỗi Biệt kích quân bị biệt giam trong các căn hầm ngầm dưới đất “Một
nấm mộ cho người sống”. Chín tháng sau, họ đưa anh Nhi đến trại tù
Thanh Trì gần Hà Nội, và cũng bị biệt giam thêm một năm. Mỗi ngày được
ăn một tô cơm đủ để người lính Biệt kích sống sót cho đến ngày được trả
tự do vào năm 1982. Hôm được tha về, họ cho anh 20 đồng (khoảng 20 xu)
và anh đã dùng cả số tiền đó để ăn tô phở. Đó là bữa ăn quá thịnh soạn,
quá lớn sau 16 năm tù đầy.
Khi về đến gia đình, tất cả mọi người đều mừng rỡ, có cả người bạn
gái, hứa hôn năm xưa. Nguyễn Bẩy kể rằng “Mẹ anh ta báo tin cho tôi biết
rằng anh đã chết”. Nhưng tôi vẫn tin tưởng anh Nhi vẫn còn sống và chờ
đợi. Sáu tháng sau, hai người làm đám cưới, cô dâu kể tiếp câu chuyện
“Anh kể cho tôi nghe, những gì anh đã trải qua trong thời gian tù đầy…
và tôi đã khóc khi nhìn thấy những vết thẹo nơi hai cổ chân, hai cánh
tay, lúc anh bị cùm biệt giam. Thêm những vụ đánh đập, hành hạ tù nhân,
vấn đề vệ sinh, ăn uống thiếu thốn trong trại tù… Không phải một mình
anh mà tất cả các đồng đội khác cũng gặp hoàn cảnh tương tự. Trên người
anh vẫn còn đầy những vết thẹo”.
Đến năm 1990, Biệt kích Đinh Hùng Nhi đã đem được vợ con đến Hoa Kỳ
qua chương trình H.O. Trước khi đến được bến bờ Tự do, anh Nhi còn bị tù
thêm ba năm nữa về tôi vượt biên. Hiện nay, hoàn cảnh vẫn còn khó khăn,
gia đình anh phải thuê nhà chung với một gia đình người bạn khác trong
một căn Apartment 450 đô la một tháng. Gia đình anh được trợ cấp 770 đô
la mỗi tháng, kể cả phiếu thực phẩm. Hai vợ chồng ngủ chung giường với
hai con : Anh Hồng lên sáu và Quân Hồng lên bốn. Tình trạng sức khoẻ của
anh Nhi không được tốt, cùng với bệnh “suy nghĩ nhiều”, không tập
trung, nên khó tìm việc làm.
Một năm sau khi toán Biệt kích Romeo bị bắt, Đại tá John K. Singlaub,
sau này lên Trung tướng, lên làm Chỉ huy trưởng đơn vị SOG, trông coi
kế hoạch 34A, nói rằng, chỉ một thời gian ngắn trong chức vụ, ông ta đã
biết số phận các toán Biệt kích ra ngoài bắc đã bị địch bắt. Nhiều nhân
viên truyền tin trong các toán Biệt kích bị tra tấn, ép buộc gửi những
báo cáo sai lạc về cho đơn vị SOG. Thường họ dụ thả các toán Biệt kích
khác vào khu vực phục kích của họ, hoặc yêu cầu tái tiếp tế cho các toán
Biệt kích mà thực sự đã nằm trong tay họ. Đại tá về hưu, Fred Caristo,
trước đó là Đại úy làm việc trong kế hoạch 34A kể lại, có một lần họ
nhận được công điện yêu cầu tiếp tế 30 khẩu súng lục cùng với ống hãm
thanh, 200 cây thuốc lá Salem, 20 đồng hồ Seiko và một tá giầy da.
Đơn vị SOG phải loại bỏ những toán Biệt kích mà bị nghi ngờ đang làm
việc với địch quân (cắt liên lạc). Singlaub cho rằng, hệ thống an ninh
của Bắc Việt rất chặt chẽ, rất khó thực hiện những hoạt động bí mật.
Dale Andrade, người có ít nhiều hoạt động bí mật trong cuộc chiến
Việt Nam, nhìn lại vấn đề và cho rằng, các cấp chỉ huy Hoa Kỳ đã đặt
trọng tâm vào vấn đề chưa đủ, làm cho “tấm thảm kịch bi đát hơn”. Theo
hồ sơ bộ Quốc Phòng, đó là một thảm kịch.
Cả hai Biệt kích quân, Lê Văn Ngung, Đinh Hùng Nhi đều khai, có nhiều
Biệt kích quân bị bắt, chết vì bị bỏ đói, thiếu dinh dưỡng, bệnh tật.
Những người chống đối bị phạt đưa vào khu biệt giam và bị cùm bên trong.
Đến cuối năm 1972, trong thời gian hòa đàm Paris đang diễn tiến, các
Biệt kích quân được ăn uống đầy đủ hơn, và được cung cấp quần áo mới.
Trong nhà tù, các Biệt kích quân đồn với nhau, sẽ được trả tự do. Ngày
27 tháng Giêng năm 1973, hiệp định đình chiến được Hoa Kỳ, Bắc và Nam
Việt Nam ký kết, trong đó có điều khoản trao trả tù binh trong vòng 60
ngày. Mặc dầu với gần 600 tù binh Hoa Kỳ được Bắc Việt trả tự do, các tù
Biệt kích vẫn không được trao trả, có người đã bị bắt trước khi các phi
công Hoa Kỳ bị bắt. Để phản đối, các Biệt kích quân tổ chức những cuộc
tuyệt thực và bị cai tù đánh đập tàn nhẫn, không thương tiếc.
Thực ra, trong bàn hội nghị, người Hoa Kỳ không thể nào lên tiếng đòi
hỏi miền Bắc trả tự do cho các Biệt kích quân. Người Hoa Kỳ đổ lỗi cho
phiá VNCH “Làm sao chúng tôi mở miệng được. Kế hoạch 34A là những hoạt
động bí mật, phải chối cãi. Mặc dầu chúng tôi tuyển mộ, huấn luyện, trả
lương cho họ. Nhưng các Biệt kích quân là người Việt Nam, Tổng Thống
Thiệu là người phải đem họ về”.
Dường như, có đôi lần phiá VNCH đã muốn nói đến số phận các Biệt kích
quân bị giam giữ ngoài Bắc. Theo lời một vị Đại tá VNCH, ẩn danh, hiện
đang sống ở Orange County (Quận Cam), VNCH đã soạn một danh sách hơn 100
Biệt kích quân miền Nam bị bắt ngoài Bắc để đem lên bàn hội nghị. Nhưng
sau đó, không nhắc đến.
Tourison, người viết quyển sách “Cuộc Chiến Bí Mật, Đạo Quân Bí Mật”
nói rằng, có bằng chứng rõ ràng, Hoa Kỳ biết các Biệt kích quân Việt Nam
vẫn còn sống, nhưng không thương thuyết để họ được trao trả. Những
phiên tòa xử Biệt kích đã được đăng tải trên báo chí, và phát thanh trên
hệ thống truyền thanh miền Bắc. Caristo cũng nhìn nhận, có những buổi
phát thanh xử Biệt kích trên làn sóng phát tuyến, sau khi gia đình họ đã
được thông báo người lính Biệt kích đã chết và trả tiền “tử” cho gia
đình họ. “Hoạt động của chúng tôi đã thất bại và chúng tôi đã nói dối
gia đình của họ”. Tourison nói thêm “Khi chúng ta có cơ hội đem họ về
(hiệp định Paris), chúng ta lại bỏ qua”.
John Madison, một Đại tá về hưu, trưởng phái đoàn Hoa Kỳ sang Việt
Nam để bảo đảm tất cả các tù binh Hoa Kỳ được trả tự do. Ông ta nói
rằng, không nghe ai nói đến tù Biệt kích, và phái đoàn ông ta qua Việt
Nam, cũng không được lệnh đòi hỏi về họ. Theo ông ta, trách nhiệm về các
tù Biệt kích nằm trong tay VNCH. Ông ta không nhớ rõ, phiá VNCH có lần
nào nói đến các tù Biệt kích không. Đại tá về hưu Harry J. Summers, Jr.
cùng đi với phái đoàn Hoa Kỳ nói rằng, các tù binh Biệt kích đúng ra
phải được trả về. Trong danh sách tù binh lại không có tên họ. Tôi không
rõ, phiá Hoa Kỳ, hay các phái đoàn khác nhắc đến họ. Họ bị chính quyền
miền Bắc kết tội làm gián điệp… có lẽ vì thế không có tên trong danh
sách tù binh.
Bẩy năm sau ngày ký hiệp định Paris (1980), người nhái Vũ Đức Gương
là một trong những Biệt kích quân đầu tiên trốn thoát khỏi nhà tù miền
Bắc, đến được Hoa Kỳ. Anh ta sống với bà Mẹ, vợ cùng ba con ở Chicago,
Tiểu bang Illinois.
Vũ Đức Gương, một người trong toán người nhái được đưa ra tấn công
mục tiêu dọc theo bờ biền miền Bắc Việt Nam. Ba chuyến đi trước đuợc hủy
bỏ (thời tiết,…), chuyến thứ tư cũng là chuyến cuối cùng vào tháng Ba
năm 1964. Anh Gương bị bắt, không tìm ra chiếc tầu của địch mà toán
người nhái có nhiệm vụ gài mìn đánh chìm. “Trong lúc chúng tôi đang tìm
mục tiêu khác… có mấy chiếc tầu địch chạy về phiá toán người nhái”. Anh
tiếp tục kể câu chuyện “Họ nổ súng bắn vào toán người nhái, làm một
người chết và một người khác bị thương”. Sau gần một tháng trốn tránh,
những người sống sót trong toán người nhái bị bắt, khi họ đang tìm cách
lội bộ về miền Nam vĩ tuyến 17.
Đến năm 1980, anh được đưa đến một trại tù khác. Được đối xử tốt hơn,
có vài người được phép về thăm gia đình. Tới phiên anh, người nhái Vũ
Đức Gương đi luôn, không trở lại trại tù, trở thành kẻ trốn tránh bất
hợp pháp. Sau đó anh cùng gia đình đi vượt biên bằng một chiếc ghe nhỏ,
đến được bến bờ Tự do.
Việc sửa đổi luật vể cựu chiến binh là một vấn đề phức tạp, phải
thông qua Quốc Hội Hoa Kỳ. Caristo phát biểu “Nhiều tù binh Biệt kích đã
phải sống trong khung sắt gần hai mươi năm, họ xứng đáng được hưởng
quyền lợi của một cựu Quân nhân Hoa Kỳ”. Caristo nói thêm “Có đôi lúc,
chúng quyền Hoa Kỳ đã nghĩ đến điều đó, nhưng dân chúng Hoa Kỳ chỉ muốn
quên đi cuộc chiến tranh tại Việt Nam”.
Nhiều người Hoa Kỳ rất binh vực các Biệt kích quân Việt Nam. Năm
1987, Tourison viết một lá thư cho Chính quyền Tiểu bang California, cho
quyền lợi Nguyễn Văn Tân, một Biệt kích trong kế hoạch 34A. Anh tân bị
bắt vào năm 1965, và bị tù gần 20 năm. Anh ta là một trong những người
tham dự cuộc tuyệt thực năm 1973.
Năm 1984, điệp viên Trần Quốc Hùng đến được Hoa Kỳ. Ông là người viết
cuốn hồi ký “Thép Đen” rất nổi tiếng trong cộng đồng người Việt Nam ở
hải ngoại.
Dallas, TX.
vđh